KIẾN THỨC CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG
Chuyên mục không tạo ra bất kỳ sự ràng buộc pháp lý nào giữa chúng tôi và người đọc. Nội dung trả lời chứa đựng những thông tin cơ bản nhằm giúp người đọc nắm bắt những vấn đề chung liên quan đến chủ đề được giới thiệu. Trường hợp cần thảo luận cụ thể hơn, người đọc có thể gửi câu hỏi chi tiết cho chúng tôi theo email service@contracts-vn.com. Chúng tôi sẽ cố gắng trả lời nhiều nhất có thể và thường là chúng tôi sẽ chọn lọc để trả lời các câu hỏi có giá trị tham khảo cao mà không có hàm ý bỏ qua bất kỳ yêu cầu nào đã được người đọc quan tâm gửi về.
Theo quy định của pháp luật (Điều 119, BLDS 2015) thì giao dịch dân sự có thể giao kết bằng lời nói, văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Tuy nhiên nếu pháp luật có quy định bắt buộc một loại giao dịch cụ thể phải thể hiện thông qua hình thức phù hợp thì các bên phải tuân thủ hình thức giao kết được quy định đó.
Như vậy giao kết hợp đồng bằng lời nói là một trong những hình thức giao kết được thừa nhận. Rủi ro đối với giao kết hợp đồng bằng lời nói là các bên khó kiểm soát được nội dung và việc thực thi nghĩa vụ hợp đồng. Nói cách khác, hình thức giao kết hợp đồng bằng lời nói tuy thuận tiện, nhanh chóng nhưng không mang lại sự đảm bảo chắc chắn về mặt chứng cứ xác lập đối với ý chí và hành vi giữa các bên.
Quy định tham Khảo
“Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó” (khoản 2, Điều 119).
Lưu ý gì khi giao kết hợp đồng bằng lời nói
Nếu đã giao kết hơp đồng bằng lời nói hoặc chuẩn bị giao kết, đi kèm với nội dung hợp đồng, trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên nên lưu ý việc lập và duy trì các tài liệu, văn kiện giao dịch bằng văn bản như có thể phát sinh nhằm làm bằng chứng thay thế cho ý chí giao kết và thực hiện hợp đồng. Các văn kiện và tài liệu có thể là phiếu, chứng từ xuất hàng, thư tay, biên nhận, biên bản, email, chứng cứ điện tử khác có thể truy xuất nguồn gốc …
Các bằng chứng giao dịch có thể được ghi âm, ghi hình, mời bên thứ ba làm chứng hoặc sử dụng dịch vụ thừa phát lại để xác nhận và lập vi bằng theo quy định.
Theo quy định của Điều 119, BLDS 2015, giao kết hợp đồng có thể được thực hiện bằng văn bản. Trên thực tế, vì nhiều lý do, nhiều hợp đồng được giao kết thông qua chữ ký của đại diện hợp pháp của các bên nhưng không thực hiện các thủ tục chứng nhận pháp lý như công chứng, chứng thực …
Theo quy định hiện nay, việc xác lập hợp đồng đi kèm với công chứng, chứng thực hay không là tuỳ thuộc vào quy định của pháp luật đối với từng loại giao dịch.
Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được công chứng, chứng thực nhưng các bên không tuân thủ quy định quy định này thì tuỳ vào mức độ thực hiện nghĩa vụ của các bên, pháp luật có thể công nhận hoặc không công nhận giá trị pháp lý của giao dịch đó (xem thêm quy định tham khảo bên dưới)
Quy định tham khảo
“Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định” (khoản 2, điều 117, BLDS);
“Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây: 1. Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. 2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.” (Điều 129, BLDS).
Lưu ý về chứng nhận giao dịch
Khi ký hợp đồng, ngoài con dấu và chữ ký của người đại diện hợp lệ của các bên thì các bên cần chú ý đến yêu cầu công chứng, chứng thực của giao dịch. Để đảm bảo việc này, các bên phải rà soát các quy dịnh của pháp luật có liên quan hoặc chủ động việc công chứng, chứng thực giao dịch theo nhu cầu riêng.
Ngoài công chứng, chứng thực, nếu cầu thiết, các bên có thể mời bên thứ ba làm chứng việc giao kết hợp đồng.
Ngoài ra, một số giao dịch còn đòi hỏi phải được đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước. Đây cũng là quy định về điều kiện để giao dịch có giá trị pháp lý nên các bên cần lưu ý thực hiện, VD đăng ký giao dịch bảo đảm trong các hợp đồng vay, tín dụng …
Được thừa nhận
Theo khoản 1, điều 119, BLDS “Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.”
Theo điều 10, luật giao dịch điện tử 2005: “Thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác.”
Như vậy email (thư điện tử) được xem là một trong những hình thức văn bản được phép sử dụng làm hình thức giao dịch. Tuy nhiên việc sử dụng email và nội dung email làm hình thức giao dịch phải tuân thủ các quy định chuyển giao, lưu trữ, quản lý, tiếp nhận thông điệp dữ liệu của Luật giao dịch điện tử.
Quy định tham khảo
“Trường hợp pháp luật yêu cầu thông tin phải được thể hiện bằng văn bản thì thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng yêu cầu này nếu thông tin chứa trong thông điệp dữ liệu đó có thể truy cập và sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết.” (Điều 12, Luật giao dịch điện tử).
“Giao kết hợp đồng điện tử là việc sử dụng thông điệp dữ liệu để tiến hành một phần hoặc toàn bộ giao dịch trong quá trình giao kết hợp đồng. Trong giao kết hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng có thể được thực hiện thông qua thông điệp dữ liệu.” (Điều 36, Luật giao dịch điện tử).
“Giá trị chứng cứ của thông điệp dữ liệu được xác định căn cứ vào độ tin cậy của cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi thông điệp dữ liệu; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu tố phù hợp khác” (Khoản 2, Điều 14, Luật giao dịch điện tử)
Như vậy điều kiện để Email được sử dụng như hình thức giao dịch hợp pháp là
>> Có thể truy cập và sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết (tức là khi có mail giao dịch, bạn không chỉ in nội dung email ra thành văn bản để sử dụng mà phải giữ chúng được truy suất trên hệ thống bất kỳ lúc nào)
>> Phải tuân thủ các quy định khởi tạo, chuyển giao, lưu trữ, quản lý, tiếp nhận thông điệp dữ liệu của Luật giao dịch điện tử (Thông tin nguyên trạng, không bị thay đổi …)
Theo quy định hiện nay, hợp đồng có hiệu lực vào thời điểm giao kết. Đối với hợp đồng bằng văn bản, thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay hình thức được chấp nhận khác thể hiện trên văn bản (khoản 4, Điều 400, BLDS 2015). Hình thức thể hiện khác ở đây là các hình thức thay thế phù hợp như điểm chỉ, lăn tay, nhận dạng khác xác định trên hợp đồng. Tuy nhiên thời điểm hai bên ký văn bản hợp đồng là thời điểm tối thiểu. Nếu các bên đã ký kết hợp đồng, trong hợp đồng có thoả thuận cụ thể về thời điểm có hiệu lực hợp đồng khác với thời điểm giao kết (thời điểm ký) và pháp luật không quy định bắt buộc hình thức giao kết thì hợp đồng sẽ có hiệu lực vào thời điểm mà hai bên đã thoả thuận có hiệu lực đó (khoản 1, Điều 401, BLDS 2015)
Theo quy định hiện nay, pháp luật không có sự phân biệt giá trị pháp lý giữa hợp đồng bằng văn bản và hợp đồng bằng miệng. Tuy nhiên hợp đồng văn bản thường có giá trị chứng cứ rõ ràng và dễ xác định hơn so với hợp đồng bằng miệng. Tuỳ vào mục đích và bối cảnh giao dịch, các bên sẽ lựa chọn cho mình hình thức giao dịch phù hợp.
Theo quy định của pháp luật, đơn chào hàng (hoặc một hình thức tương tự có thể thay thế được) có thể được xem là đề nghị giao kết tuỳ thuộc vào các yêu cầu cần có của một đơn chào hàng được bên chào hàng thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật.
Theo khoản 1, Điều 400, BLDS thì hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết của bên được đề nghị giao kết hợp đồng. Điều này được hiểu là nếu bên nhận đề nghị chào hàng có xác nhận đồng ý đơn hàng phù hợp với các yêu cầu của pháp luật thì thông qua đơn chào hàng và xác nhận đồng ý đơn chào hàng đó giữa hai bên đã hình thành quan hệ hợp đồng.
Hình dung các bước để ký hợp đồng qua thư chào hàng
(i) Xác định nhu cầu mua bán thông qua văn bản, tài liệu, hình thức giao dịch điện tử về đề nghị chào hàng. VD khách muốn mua hàng và đề nghị cửa hàng (bên bán) gửi bản chào hàng và giá cả.
(ii) Bên bán lập văn bản chào hàng ghi rõ các thông tin về hàng hóa, chất lượng, giá cả, thanh toán, giao hàng, tham chiếu tới quy định, điều kiện mua bán hàng hóa (nếu có)… đề nghị bên mua xem và phản hồi mua hàng.
(iii) Bên mua trao đổi với bên bán và phản hồi đồng ý mua hàng bằng văn bản hoặc các hình thức giao dịch điện tử (Email, SMS, fax, …) (hợp đồng hình thành và có hiệu lực khi bên bán nhận được phản hồi mua hàng của bên mua).
(iv) Hai bên thống nhất việc giao hàng và thanh toán (bao gồm hình thức thanh toán khi nhận hàng COD).
(v) Các bên tiến hành thực hiện nghĩa vụ giao hàng và thanh toán trên thực tế.
(*) Lưu ý: các bên phải lưu giữ toàn bộ các tài liệu liên quan tới quá trình giao dịch để làm cơ sở xác định quan hệ mua bán của các bên.
Theo quy định của pháp luật, đơn chào hàng (hoặc một hình thức tương tự có thể thay thế được) có thể được xem là đề nghị giao kết tuỳ thuộc vào các yêu cầu cần có của một đơn chào hàng được bên chào hàng thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật.
Theo khoản 1, Điều 400, BLDS thì hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết của bên được đề nghị giao kết hợp đồng. Điều này được hiểu là nếu bên nhận đề nghị chào hàng có xác nhận đồng ý đơn hàng phù hợp với các yêu cầu của pháp luật thì thông qua đơn chào hàng và xác nhận đồng ý đơn chào hàng đó giữa hai bên đã hình thành quan hệ hợp đồng.
Hình dung các bước để ký hợp đồng qua thư chào hàng
(i) Xác định nhu cầu mua bán thông qua văn bản, tài liệu, hình thức giao dịch điện tử về đề nghị chào hàng. VD khách muốn mua hàng và đề nghị cửa hàng (bên bán) gửi bản chào hàng và giá cả.
(ii) Bên bán lập văn bản chào hàng ghi rõ các thông tin về hàng hóa, chất lượng, giá cả, thanh toán, giao hàng, tham chiếu tới quy định, điều kiện mua bán hàng hóa (nếu có)… đề nghị bên mua xem và phản hồi mua hàng.
(iii) Bên mua trao đổi với bên bán và phản hồi đồng ý mua hàng bằng văn bản hoặc các hình thức giao dịch điện tử (Email, SMS, fax, …) (hợp đồng hình thành và có hiệu lực khi bên bán nhận được phản hồi mua hàng của bên mua).
(iv) Hai bên thống nhất việc giao hàng và thanh toán (bao gồm hình thức thanh toán khi nhận hàng COD).
(v) Các bên tiến hành thực hiện nghĩa vụ giao hàng và thanh toán trên thực tế.
(*) Lưu ý: các bên phải lưu giữ toàn bộ các tài liệu liên quan tới quá trình giao dịch để làm cơ sở xác định quan hệ mua bán của các bên.
Theo quy định Hình thức giao dịch dân sự, trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó (khoản 2, Điều 119, BLDS 2015). Theo điều 116, BLDS, Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Đối với trường hợp được nêu, pháp luật xác định là trường hợp vi phạm hình thức giao dịch. Tuy nhiên tuỳ từng trường hợp việc vi phạm này có ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của hợp đồng hay không là phụ thuộc vào kết quả của quá trình thực hiện nghĩa vụ của mỗi bên. Trong trường hợp các bên đã thực hiện từ 2/3 nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng trở lên thì vi phạm hình thức giao dịch không ảnh hưởng đến hiệu lực của giao dịch. Vấn đề còn lại là xác định đúng tỷ lệ thực hiện nghĩa vụ của các bên làm cơ sở giải quyết hiện vẫn chưa có quy định cụ thể.
VD Hai bên mua bán nhà, bên bán đã giao 90% số tiền, bên mua đã bàn giao nhà nhưng vì lý do gì đó mà các bên chưa kịp làm thủ tục công chứng (ở đây chỉ giả định về tình huống cho dễ hiểu) thì giao dịch có thể xem xét về tính pháp lý hợp pháp không bị vi phạm quy định về hình thức do không thực hiện công chứng hay chứng thực.
Quy định tham khảo
“Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định” (khoản 2, điều 117, BLDS);
“Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây: 1. Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. 2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.” (Điều 129, BLDS).
Thông thường, cấu trúc của một hợp đồng có thể bao gồm các nhóm điều khoản sau đây (i) nhóm điều khoản thương mại, (ii) nhóm điều khoản tiên quyết; (iii). nhóm điều khoản rủi ro; (iv) nhóm điều khoản tiêu chuẩn. Cấu trúc điều khoản hay nhóm điều khoản phụ thuộc vào mục tiêu cũng như bản chất loại giao dịch mà các bên hướng tới thực hiện.
Nhóm điều khoản thương mại là các quy định mục tiêu mà các bên mong muốn đạt được khi quyết định ký kết và thực hiện một hợp đồng, VD điều khoản về đối tượng giao dịch, giá trị thanh toán, nơi, thời gian thực hiện, số lượng, chất lượng hàng hoá …
Nhóm điều khoản tiên quyết là các quy định về điều kiện để giao dịch xảy ra, đạt được (các điều kiện phải thỏa mãn để một giao dịch được thực hiện, hoàn tất);
Nhóm điều khoản rủi ro là các quy định, dự báo, tiên liệu về rủi ro, cách thức giải quyết, hạn chế rủi ro; chế tài xử lý các hành vi vi phạm hợp đồng… Đây còn gọi là nhóm điều khoản tiên liệu sự kiện và tình huống pháp lý, điều tiết, phân phối, xử lý các rủi ro pháp lý có thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Nhóm điều khoản tiêu chuẩn là nhóm các điều khoản thông dụng, được sử dụng rộng rãi, phổ biến trong hầu hết trong các thoả thuận, hợp đồng thương mại như điều khoản về hiệu lực riêng biệt, sự toàn vẹn, quyển miễn trừ, ngôn ngữ, số lượng bản hợp đồng phát hành, sửa đổi, bổ sung, hiệu lực hợp đồng …
Theo khoản 1, Điều 398, BLDS “các bên trong hợp đồng có quyền thoả thuận về nội dung trong hợp đồng”. Như vậy ngoại trừ các hợp đồng chuyên ngành hoặc pháp luật có quy định khác thì BLDS hiện nay không quy định ràng buộc cấu trúc pháp lý khi xây dựng một hợp đồng nói chung.
Việc xây dựng và thực hiện hợp đồng dựa vào nguyên tắc tự do thoả thuận tự nguyện phù hợp với ý chí và nguyện vọng của các bên tham gia hợp đồng. Do vậy tuỳ vào mục tiêu, phân loại, mức độ, khối lượng, lợi ích giao dịch, quy định của luật pháp điều chỉnh hợp đồng, các bên sẽ quyết định lựa chọn cấu trúc giao dịch, các điều khoản và điều kiện thích hợp đối với từng hợp đồng.
Qua thực tế chúng tôi nhận thấy, khi đàm phán, dự thảo hợp đồng, các bên cần chú trọng đến các yếu tố và yêu cầu cơ bản sau: (i). mục tiêu thương mại mà các bên hướng tới phải rõ ràng, phù hợp với năng lực thực hiện của mỗi bên; (ii). việc thực hiện các nghĩa vụ và cam kết phải gắn liền với trách nhiệm pháp lý, có phạm vi và giới hạn trách nhiệm rõ ràng; (iii). nhận thức được các nguy cơ rủi ro tiềm tàng trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng để xây dựng các điều khoản phân phối rủi ro phù hợp; (iv). chú ý đến thoả thuận luật áp dụng và cơ chế tài phán, mục tiêu là việc giải quyết các bất đồng, tranh chấp pháp lý phát sinh liên quan đến việc thực hiện hợp đồng phải nhanh chóng, thuận tiện, được thực hiện bởi các cơ quan tài phán có thẩm quyền và chuyên môn phù hợp.
Theo khoản 2, Điều 401 “Từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo cam kết. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật.”
Do vậy về nguyên tắc nếu hợp đồng đã có hiệu lực thì việc sửa đổi hay huỷ bỏ chỉ thực hiện được khi các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định cụ thể về điều kiện sửa đổi hoặc huỷ bỏ. Nếu có lý do chính đáng, bên đề nghị sửa đổi, huỷ bỏ cũng không thể thực hiện nguyện vọng này trừ khi bên còn lại đồng ý.
>> Lưu ý tùy từng hợp đồng, mặc dù hợp đồng đã được ký nhưng nếu chưa có hiệu lực thì bên liên quan có quyền đề nghị sửa đổi, huỷ bỏ hợp đồng.
>> Trong thực tiễn, có nhiều nhóm hợp đồng tồn tại thỏa thuận khoảng thời gian đi đến hiệu lực kể từ thời điểm ký hợp đồng, quy định điều kiện nhằm mục đích xác thực lại ý chí giao dịch của các bên, VD “nếu sau 7 (bảy) ngày mà không bên nào có ý kiến gì về (các vấn đề [ … ]) thì hợp đồng sẽ bắt đầu có hiệu lực”. Các bên nên lưu ý điểm cơ bản này để xây dựng quy định phù hợp làm cơ sở để điều chỉnh hợp đồng trong trường hợp cần thiết.
Thực tế đã xảy ra nhiều vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hợp đồng mà một bên dựa vào tiêu đề hợp đồng để giải thích ý chí giao dịch của các bên. Tuy nhiên xác định quan hệ giao dịch của các bên trong hợp đồng là xem xét đến toàn bộ nội dung hợp đồng cũng như bối cảnh giao kết hợp đồng đó.
Theo quy định hiện nay, việc giải thích hợp đồng căn cứ vào một quá trình giao dịch kể cả các giao dịch, thoả thuận của các bên có trước thời điểm ký hợp đồng. Nếu ý chí của các bên khác với ngôn từ sử dụng trong hợp đồng thì giải thích theo ý chí chung đó.
Các quy định tham khảo
“Khi hợp đồng có điều khoản không rõ ràng thì việc giải thích điều khoản đó không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí của các bên được thể hiện trong toàn bộ quá trình trước, tại thời điểm xác lập, thực hiện hợp đồng” (khoản 1, Điều 404, BLDS).
“Khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau thì phải giải thích theo nghĩa phù hợp nhất với mục đích, tính chất của hợp đồng” (khoản 2, Điều 404, BLDS 2015).
“Các điều khoản trong hợp đồng phải được giải thích trong mối liên hệ với nhau, sao cho ý nghĩa của các điều khoản đó phù hợp với toàn bộ nội dung hợp đồng” (khoản 4, Điều 404, BLDS 2015)
“Trường hợp có sự mâu thuẫn giữa ý chí chung của các bên với ngôn từ sử dụng trong hợp đồng thì ý chí chung của các bên được dùng để giải thích hợp đồng” (khoản 5, Điều 404, BLDS 2015)
Theo quy định tại khoản 1, điều 420, BLDS, hoàn cảnh thay đổi làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên trong hợp đồng phải hội đủ các điều kiện sau: (a) Sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết hợp đồng; (b) Tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên không thể lường trước được về sự thay đổi hoàn cảnh; (c) Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng đã không được giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác; (d) Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung hợp đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên; (e) Bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng mà không thể ngăn chặn, giảm thiểu mức độ ảnh hưởng đến lợi ích.
Chính sách pháp luật thay đổi có thể được xem là trường hợp hoàn cảnh thay đổi nếu hoàn cảnh thay đổi đó làm ảnh hưởng đến quyền lợi của một (các) bên trong hợp đồng và đáp ứng các điều kiện để xem là hoàn cảnh thay đổi phù hợp với quy định của khoản 1, điều 420, BLDS.
Khi một bên có quyền lợi bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh thay đổi thì bên đó có quyền đề nghị bên còn lại đàm phán sửa đổi hợp đồng, trường hợp hai bên không thoả thuận được thì bên bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu cơ quan toà án giải quyết. Cơ quan toà án sẽ đánh giá tính hợp pháp của đề nghị xem xét quyền lợi bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh thay đổi.
Theo quy định tại khoản 2, điều 351, BLDS “Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.” Quy định này là quy định chung về trách nhiệm của bên có nghĩa vụ trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng, để được miễn trừ trách nhiệm, cần xem xét thêm thoả thuận của các bên về giải quyết trong trường hợp bất khả kháng và việc miễn trừ trách nhiệm có được quy định cụ thể hay không, nếu không có thoả thuận thì căn cứ vào các quy định của pháp luật về vấn đề này, nhất là các quy định pháp luật chuyên ngành. Nếu pháp luật cũng không có quy định cụ thể thì bên có nghĩa vụ bị ảnh hưởng bởi sự kiện bất khả kháng sẽ được miễn trừ trách nhiệm trong trường hợp này.
Do vậy theo quy định của pháp luật bên có nghĩa vụ bị ảnh hưởng bởi sự kiện bất khả kháng không mặc nhiên được miễn trừ trách nhiệm nếu không hoặc chậm thực hiện nghĩa vụ của mình với bên còn lại theo hợp đồng.
Thông thường điều khoản bất khả kháng có thể bao gồm nhưng không giới hạn các nội dung chủ yếu sau: (i). Định nghĩa sự kiện bất khả kháng, (ii). Thời gian thông báo sự kiện bất khả kháng, (iii). Nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ bị ảnh hưởng bởi sự kiện bất khả kháng chứng minh sự ảnh hưởng của sự kiện bất khả kháng đối với nghĩa vụ liên quan và áp dụng quyền miễn trừ, (iv). xử lý các vấn đề phát sinh nếu sự kiện bất khả kháng làm cản trở, ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng.
Theo khoản 1, Điều 428, BLDS “Một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”.
BLDS hiện nay không có quy định xử lý hậu quả liên quan đến việc thực hiện hợp đồng bị ảnh hưởng bởi sự kiện bất khả kháng. Do vậy trong trường hợp này, đơn phương chấm dứt hợp đồng không phải là quyền mặc nhiên của bên có quyền lợi bị ảnh hưởng bởi sự kiện bất khả kháng.
Để xem xét các ảnh hưởng nghiêm trọng từ sự kiện bất khả kháng đối với bên có nghĩa vụ theo hợp đồng, các thoả thuận thương mại có thể quy định quyền tuyên bố chấm dứt hợp đồng nếu sự kiện bất khả kháng làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng trong tương lai, nhất là sự kiện bất khả kháng kéo dài vượt quá thời hạn ấn định mà hợp đồng không thể tiếp tục thực hiện hoặc việc thực hiện hợp đồng trong bối cảnh như vậy là không cần thiết.
Ngày nay điều khoản bảo mật thông tin đóng một vai trò quan trọng trong bất kỳ thoả thuận thương mại nào. BLDS hiện nay không có định chế riêng quy định các vấn đề liên quan đến thông tin bảo mật và nghĩa vụ bảo mật thông tin của bên liên quan.
Riêng các thông tin trong quá trình giao kết hợp đồng, khoản 2, điều 387, BLDS quy định “Trường hợp một bên nhận được thông tin bí mật của bên kia trong quá trình giao kết hợp đồng thì có trách nhiệm bảo mật thông tin và không được sử dụng thông tin đó cho mục đích riêng của mình hoặc cho mục đích trái pháp luật khác.” Khoản 3, điều 387 quy định “Bên vi phạm quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
Như vậy BLDS chỉ đề cập đến một trường hợp duy nhất là bảo mật thông tin trong quá trình giao kết hợp đồng. Các vấn đề không được đề cập là (i). Nghĩa vụ bảo mật thông tin trong thời gian thực hiện hợp đồng nếu có thông tin mới do các bên cung cấp cho nhau; (ii). Thời hạn bảo mật; (iii). Xác định loại thông tin bảo mật; (iv). các trường hợp được tiết lộ và không được tiết lộ, (v). Hậu quả pháp lý và giải quyết tranh chấp liên quan đến bảo mật thông tin.
Do vậy để lấp khoảng trống pháp lý này, điều khoản bảo mật thường được các bên sử dụng như một thoả thuận riêng trong hợp đồng nhằm bảo vệ lợi ích của các bên khi xảy ra những tiết lộ, sử dụng thông tin bảo mật trong những trường hợp không được phép.
Về nguyên tắc, khi hợp đồng bị vô hiệu, pháp luật không thừa nhận tính pháp lý của hợp đồng đã ký kết (các quyền và nghĩa vụ dù đã thực hiện ở mức độ nào cũng đều không được thừa nhận).
Theo khoản 1, điều 131, BLDS “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập”.
Về hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu, BLDS quy định “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” (khoản 2, điều 131, BLDS).
Theo điều 130, BLDS “Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khi một phần nội dung của giao dịch dân sự vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch”.
VD Hai bên ký hợp đồng vay tiền thỏa thuận mức lãi suất cho vay là trên 25% năm thì phần lãi suất trên 20% sẽ không có giá trị (vộ hiệu), và được điều chỉnh lại theo thực tế giao dịch và quan hệ giữa các bên, nếu không điều chỉnh khi có tranh chấp thì cơ quan tòa án sẽ điều chỉnh phần lãi suất cho vay này phù hợp với quy định của pháp luật. Thực tế và pháp lý, điều khoản lãi suất vô hiệu được phép thỏa thuận điều chỉnh và không làm ảnh hưởng đến các điều khoản khác của hợp đồng, hay hợp đồng trong trường hợp này không bị xem là vô hiệu toàn bộ – Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác.
Xem xét sự vô hiệu của điều khoản bất kỳ của hợp đồng ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của hợp đồng là xem xét đến tính chất của điều khoản vô hiệu đó, dù một điều khoản vô hiệu nhưng thuộc các trường hợp vi phạm điều cấm của pháp luật hay làm giao dịch vô hiệu toàn phần (theo quy định) thì sự vô hiệu này sẽ kéo theo toàn bộ giao dịch đó bị vô hiệu (VD các bên thoả thuận đối tượng mua bán trong hợp đồng thuộc đối tượng bị cấm giao dịch).
Do vậy một điều khoản hợp đồng vô hiệu có thể không ảnh hưởng đến hiệu lực của các điều khoản khác của hợp đồng nhưng nếu hợp đồng đó không thể thực hiện được thì hiệu lực của các điều khoản còn lại cũng không có ý nghĩa gì cả.
Quy định tham khảo
“Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khi một phần nội dung của giao dịch dân sự vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch” (Điều 130, BLDS 2015).
“Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: (a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; (b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; (c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội” (Điều 177, BLDS).
“Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu. Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng” (Điều 123, BLDS 2015).
Trong quan hệ hợp đồng, đánh giá bên yếu thế là điều cần thiết nhằm giúp bảo vệ quyền lợi của bên yếu thế đó. Tuy nhiên thế nào là bên yếu thế, pháp luật hiện nay không có khái niệm pháp lý này.
Trong một số quy định trước đây tồn tại khái niệm bên yếu thế hay bên giao dịch yếu thế (VD khoản 8, điều 409, BLDS 2005) nhưng nay khái niệm này đã bị bãi bỏ mà thay bằng “bên soạn thảo” (hợp đồng) (khoản 6, điều 404, BLDS). Bên này là chủ thể quan trọng vì khi được soạn thảo thì bên soạn thảo có quyền đưa vào hợp đồng những điều khoản có lợi cho mình hơn. Để tránh sự bất bình đẳng trong giao kết hợp đồng, BLDS 2015 quy định “Trường hợp bên soạn thảo đưa vào hợp đồng nội dung bất lợi cho bên kia thì khi giải thích hợp đồng phải theo hướng có lợi cho bên kia”.
Do quy định giải thích hợp đồng của BLDS không có đề cập cụ thể tư cách của bên yếu thế, nên nếu bị xem là bên yếu thế hơn, bên đó có thể đặt mình trong bối cảnh giao kết và thực hiện hợp đồng thích hợp nhất để chứng minh sự yếu thế của mình thông qua tư cách của bên không trực tiếp soạn thảo hợp đồng.
Chứng minh sự “yếu thế”
Nếu tranh chấp pháp lý xảy ra, bạn được quyền chứng minh bạn là bên yếu thế nếu thỏa mãn 2 điều kiện: (i) bạn không phải là bên trực tiếp soạn thảo hợp đồng; (ii) có nội dung nào đó của hợp đồng gây bất lợi cho bạn trong bối cảnh như vậy và bạn phải chứng minh sự bất lợi đó. Việc xác định nội dung không bất lợi hay bất lợi là tùy thuộc vào từng bối cảnh thực hiện hợp đồng, có thể nhận biết được hay không vào thời điểm đàm phán, ký kết hợp đồng.
Theo BLDS 2015, phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại là 2 chế tài khác nhau được quy định tách riêng (Điều 418 và 419). Tuy nhiên giữa hai chế tài này có mối quan hệ khi áp dụng.
Theo khoản 3, điều 418, BLDS “Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp các bên có thoả thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm”.
Theo quy định trên, có thể áp dụng cả hai biện pháp chế tài cho một hành vi vi phạm hợp đồng nếu các bên có thoả thuận, nếu không thoả thuận áp dụng cả hai biện pháp mà chỉ thoả thuận duy nhất phạt hợp đồng thì chỉ áp dụng phạt hợp đồng mà không được áp dụng thêm chế tài bồi thường thiệt hại đối với hành vi vi phạm hợp đồng.
Giải pháp nào có lợi
Do pháp luật cho phép các bên cùng thỏa thuận áp dụng cả 2 chế tài đối với hành vi vi phạm hợp đồng nên các bên cần lưu ý tối đa hóa biện pháp trách nhiệm của bên vi phạm nhằm tăng tính răn đe và đó cũng là giải pháp phần nào khắc phục thiệt hại cho bên bị vi phạm khi xảy ra. Tuy nhiên lợi cho bên này thì sẽ là hạn chế cho bên kia (nhất là bên có nghĩa vụ chính phải thực hiện theo hợp đồng) nên để đạt được một thỏa thuận tối ưu về vấn đề này, các bên cần lưu ý thêm các vấn đề sau:
>> Nếu có quy định phạt hợp đồng thì cần xem xét giới hạn giá trị mức phạt theo thỏa thuận hoặc theo thông lệ.
>> Nếu có quy định bồi thường cùng lúc với phạt hợp đồng thì nên bổ sung quy định giới hạn mức bồi thường hoặc/và giới hạn tính chất thiệt hại (VD chỉ bồi thường đối với TH trực tiếp mà không áp dụng cho TH gián tiếp …).
Theo Khoản 2, Điều 418, BLDS “Mức phạt vi phạm do các bên thoả thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác”.
Như vậy trừ khi pháp luật liên quan (thường hiểu là pháp luật chuyên ngành) có quy định khác thì các bên có quyền thoả thuận cơ sở dùng để tính toán các khoản phạt vi phạm, VD tính tỷ lệ phần trăm theo tổng giá trị vi phạm hay tổng giá trị hợp đồng đều được. Ngoài hai cách tính này thì mức phạt có thể được áp cố định hoặc sử dụng bất kỳ phương pháp tính khác được các bên lựa chọn thực hiện ghi rõ trong hợp đồng.
Theo khoản 3, điều 418, BLDS “Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp các bên có thoả thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm”.
Như vậy nếu có thoả thuận phạt hợp đồng nhưng không nói gì đến bồi thường thiệt hại thì chỉ áp dụng phạt vi phạm hợp đồng. Nghĩa là trong trường hợp này, một hành vi vi phạm hợp đồng chỉ được phép áp dụng một biện pháp chế tài là phạt hợp đồng.
Theo khoản 2, Điều 428, BLDS 2015 “Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.” và khoản 3, Điều 423, BLDS 2015 “3. Bên hủy bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc hủy bỏ, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.”
Theo Điều 422, BLDS 2015. Hợp đồng chấm dứt trong trường hợp sau đây: “Hợp đồng đã được hoàn thành; Theo thoả thuận của các bên; Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân giao kết hợp đồng chấm dứt tồn tại mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện; Hợp đồng bị huỷ bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện; Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn; Hợp đồng chấm dứt theo quy định tại Điều 420 của Bộ luật này; Trường hợp khác do luật quy định”.
Theo các quy định trên, pháp luật đề cập cụ thể hai trường hợp là bên có hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng và bên hủy bỏ hợp đồng phải thực hiện nghĩa vụ thông báo. Tuy không có quy định bao trùm nhưng cần phải hiểu sự kiện chấm dứt hợp đồng là vấn đề quan trọng nên để chấm dứt HĐ một cách suôn sẽ và tạo kênh tương tác phù hợp, bên có ý định phải có thông báo cụ thể làm cơ sở pháp lý để thông tin nguyên nhân, ý định, thời điểm, giải quyết các vấn đề liên quan đến việc chấm dứt hợp đồng.
Việc chấm dứt hợp đồng phải dựa trên các căn cứ pháp lý hoặc thuộc trường hợp được các bên thoả thuận trong hợp đồng. VD theo quy định tại Điều 423 (huỷ bỏ hợp đồng) và Điều 428 (đơn phương chấm dứt hợp đồng). Hai quy định này đưa ra căn cứ chấm dứt hợp đồng là khi bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc một bên vi phạm hợp đồng là điều kiện huỷ bỏ mà các bên đã thoả thuận (đối với trường hợp hủy bỏ) hoặc các bên có thỏa thuận (đơn phương chấm dứt) hoặc hoặc trường hợp pháp luật có quy định.
Theo hai quy định trên, một bên được huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng nếu bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng. Theo khoản 2, Điều 423, BLDS 2015, vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng là việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của một bên đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng.
Hành vi “vi phạm nghiêm trọng” nghĩa vụ hợp đồng hiện nay được quy định cụ thể trong luật (BLDS 2015). Theo các quy định trước đây nếu muốn sử dụng căn cứ một bên “vi phạm nghiêm trọng” nghĩa vụ hợp đồng để đơn phương hay huỷ bỏ hợp đồng, các bên phải thoả thuận căn cứ này trong hợp đồng để làm cơ sở thực hiện (hành vi vi phạm nào được cho là vi phạm nghiêm trọng phải được thỏa thuận cụ thể ghi trong hợp đồng).
Tuy pháp luật không nhắc đến hành vi phạm hợp đồng thông thường là căn cứ chấm dứt hợp đồng nhưng cần lưu ý đến quy định thỏa thuận của các bên (Điều 423.1.a và Điều 428.1, BLDS 2015), trong đó có thỏa thuận về các trường hợp chấm dứt hợp đồng, bao gồm thỏa thuận về hành vi vi phạm hợp đồng là cơ sở để chấm dứt hợp đồng.
Do vậy, trường hợp một bên vi phạm hợp đồng (vi phạm nghĩa vụ thực hiện) thì bên còn lại phải xem hợp đồng có quy định vi phạm hợp đồng là căn cứ chấm dứt hợp đồng hay không. Nếu không có thì xem hành vi vi phạm đó có phải là “vi phạm nghiêm trọng” hay không (căn cứ vào khoản 2, Điều 423, BLDS 2015 như đã nói ở trên) trước khi quyết định việc chấm dứt hợp đồng. Trường hợp 2 căn cứ trên không thỏa mãn thì các bên vẫn có quyền đề nghị việc thỏa thuận chấm dứt hợp đồng liên quan đến hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm.
Về nguyên tắc, trong giải quyết tranh chấp quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài, việc lựa chọn cơ quan tài phán thường do các bên hợp đồng quyết định, tuy nhiên tuỳ theo quy định pháp luật của từng quốc gia, vẫn có những ngoại lệ về thẩm quyền, VD theo Điều 470. Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền riêng biệt đối với những vụ án:
Vụ án dân sự đó có liên quan đến quyền đối với tài sản là bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam.
Vụ án ly hôn giữa công dân Việt Nam với công dân nước ngoài hoặc người không quốc tịch, nếu cả hai vợ chồng cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở Việt Nam.
Vụ án dân sự khác mà các bên được lựa chọn Tòa án Việt Nam để giải quyết theo pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và các bên đồng ý lựa chọn Tòa án Việt Nam.
Ngoài ra nếu các hiệp ước thương mại song phương, đa phương mà hai bên hợp đồng thuộc các quốc gia là thành viên hoặc tham các hiệp ước thương mại đó có quy định cụ thể về cơ chế tài phán và chọn luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng thì các bên phải tuân thủ quy định về lựa chọn thẩm quyền tài phán đó.
Lựa chọn cơ quan, tổ chức tài phán cần chú ý những vấn đề sau
>> Xác định cơ quan tài phán giải quyết cần phù hợp với dạng quan hệ tranh chấp, VD nên chọn trọng tài thương mại đối với các tranh chấp chuyên ngành.(bảo hiểm, ngân hàng, xây dựng …)
>> Ghi rõ ràng cơ chế, thủ tục chọn cơ quan hay tổ chức giải quyết tranh chấp trong hợp đồng, việc chỉ định cơ quan, tổ chức tài phán nên ghi luôn trong hợp đồng thành một điều khoản độc lập cùng với quy định chọn luật áp dụng (nhất là quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài)
>> Cân nhắc quy định thực hiện thủ tục hòa giải trước khi đưa vụ việc đến cơ quan tài phán để hạn chế sự lạm dụng quyền tài phán để giải quyết tranh chấp vụ việc, nhất là khi các bên còn có thể giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp thương lượng, hòa giải.
>> Chọn cơ quan tài phán dựa trên tiêu chí uy tín và được thừa nhận rộng rãi trên thị trường (VD nếu chọn trọng tài thương mại thì nên tìm hiểu thị trường trọng tài thương mại trước khi quyết định).
Sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật, pháp luật của các quốc gia đôi khi là rào cản đối với các bên trong việc lựa chọn luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
Theo thực tế và thông lệ thương mại, việc lựa chọn luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng thường dựa vào các yếu tố sau:
Thẩm quyền quốc gia. Tức là thẩm quyền tài phán riêng biệt của quốc gia đó đối với quan hệ tranh chấp nhằm tránh các xung đột về thẩm quyền pháp lý giải quyết vụ việc.
Mức độ phổ biến của hệ thống pháp luật hay luật quốc gia dự định lựa chọn. Là mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật chuyên ngành đủ để giải quyết các quan hệ pháp lý có yếu tố nước ngoài theo từng lĩnh vực chuyên môn.
Mức độ nhận thức, hiểu biết các quy định của luật pháp quốc gia dự định lựa chọn: Là hiểu biết những thuận lợi và khó khăn nếu áp dụng và thực thi các quy định của pháp luật quốc gia dự định lựa chọn điều chỉnh quan hệ hợp đồng.
Vấn đề ngôn ngữ giao tiếp, ngôn ngữ pháp lý và sự hỗ trợ của tư vấn địa phương nơi luật quốc gia dự định được lựa chọn.
Lựa chọn luật điều chỉnh hợp đồng là vấn đề rất cần thiết, có ảnh hưởng đến quá trình và kết quả giải quyết vụ việc tranh chấp, do vậy các bên không nên phó thác hay xem nhẹ thoả thuận này, nên chủ động tìm hiểu tập quán thương mại giải quyết tranh chấp liên quan đến việc chọn nguồn luật điều chỉnh, tìm hiểu và tham vấn các nhà tư vấn pháp lý trước khi quyết định lựa chọn nguồn luật phù hợp để điều chỉnh quan hệ hợp đồng.
Quy định tham khảo
Theo Điều 683, BLDS 2015, CÁC BÊN TRONG QUAN HỆ HỢP ĐỒNG ĐƯỢC THỎA THUẬN LỰA CHỌN PHÁP LUẬT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI HỢP ĐỒNG, trừ trường hợp quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều 683, BLDS 2015. Trường hợp các bên không có thoả thuận về pháp luật áp dụng thì pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng đó được áp dụng.
>> Pháp luật của nước sau đây được coi là pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng: (a) Pháp luật của nước nơi người bán cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng mua bán hàng hóa; (b) Pháp luật của nước nơi người cung cấp dịch vụ cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng dịch vụ; (c) Pháp luật của nước nơi người nhận quyền cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ; (d) Pháp luật của nước nơi người lao động thường xuyên thực hiện công việc đối với hợp đồng lao động. Nếu người lao động thường xuyên thực hiện công việc tại nhiều nước khác nhau hoặc không xác định được nơi người lao động thường xuyên thực hiện công việc thì pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng lao động là pháp luật của nước nơi người sử dụng lao động cư trú đối với cá nhân hoặc thành lập đối với pháp nhân; (đ) Pháp luật của nước nơi người tiêu dùng cư trú đối với hợp đồng tiêu dùng.
>> Trường hợp chứng minh được pháp luật của nước khác với pháp luật được nêu trên đây có mối liên hệ gắn bó hơn với hợp đồng thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước đó.
>> Trường hợp hợp đồng có đối tượng là bất động sản thì pháp luật áp dụng đối với việc chuyển giao quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là bất động sản, thuê bất động sản hoặc việc sử dụng bất động sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là pháp luật của nước nơi có bất động sản.
>> Trường hợp pháp luật do các bên lựa chọn trong hợp đồng lao động, hợp đồng tiêu dùng có ảnh hưởng đến quyền lợi tối thiểu của người lao động, người tiêu dùng theo quy định của pháp luật Việt Nam thì pháp luật Việt Nam được áp dụng.
>> Các bên có thể thoả thuận thay đổi pháp luật áp dụng đối với hợp đồng nhưng việc thay đổi đó không được ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba được hưởng trước khi thay đổi pháp luật áp dụng, trừ trường hợp người thứ ba đồng ý.